Người lao động tự do mua nhà ở xã hội bị từ chối xác nhận thu nhập, Bộ Xây dựng thông tin gì?
Về vấn đề xác nhận thu nhập để mua nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng cho hay, căn cứ thông tin cơ sở dữ liệu về dân cư, Công an cấp xã xác nhận điều kiện về thu nhập cho đối tượng là người thu nhập thấp không có hợp đồng lao động.
Bộ Xây dựng vừa có thông tin phản hồi về việc liên quan tới cơ quan xác nhận mua nhà ở xã hội cho đối tượng lao động tự do không có hợp đồng lao động.
Trong câu hỏi gửi tới Bộ Xây dựng, công dân Mai Hiểu Mi thắc mắc hiện là lao động tự do, đang làm việc tại quán ăn có thu nhập hàng tháng 10 triệu đồng, không đủ 150 triệu đồng/năm và đang có nhu cầu mua nhà ở xã hội.
Thế nhưng, khi ra UBND phường làm việc thì người dân này được thông báo chưa có văn bản hướng dẫn xác nhận chứng minh thu nhập. Do vậy, người dân mong nhận được thông tin giải đáp, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Trả lời về vấn đề này, sau khi nghiên cứu, Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) cho biết, ngày 10/10/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 261/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2024/NĐ-СР ngày 26/7/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý nhà ở xã hội và Nghị định số 192/2025/NĐ-CP ngày 1/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị quyết số 201/2025/QH15 ngày 29/5/2025 của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội.
Theo đó, tại khoản 2, Điều 1 Nghị định số 261/2025/NĐ-CP đã sửa đổi bổ sung khoản 1 và khoản 2, Điều 30 Nghị định số 100/2024/NĐ-CP. Trong đó, tại Điều 30 – điều kiện về thu nhập: Đối với các đối tượng quy định tại các khoản 5, 6 và 8 Điều 76 của Luật Nhà ở thì phải đảm bảo điều kiện về thu nhập.
Cụ thể, trường hợp người đứng đơn là người chưa kết hôn hoặc được xác nhận là độc thân thì có thu nhập bình quân hàng tháng thực nhận không quá 20 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận.
Trường hợp người đứng đơn là người chưa kết hôn hoặc được xác nhận là độc thân đang nuôi con dưới tuổi thành niên thì thu nhập bình quân hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận.
Đối với trường hợp người đứng đơn đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ (chồng) của người đó có tổng thu nhập bình quân hàng tháng thực nhận không quá 40 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận.
Thời gian xác định điều kiện về thu nhập theo quy định tại điểm a, điểm b khoản này là trong 12 tháng liền kề, tính từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền thực hiện xác nhận.
Cũng theo Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản, căn cứ điều kiện, mức thu nhập của từng khu vực trên địa bàn, chính sách ưu đãi về nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức, số lượng người phụ thuộc theo quy định của pháp luật, UBND cấp tỉnh được quyết định hệ số điều chỉnh mức thu nhập quy định tại điểm a, điểm b khoản này nhưng không vượt quá tỷ lệ giữa thu nhập bình quân đầu người tại địa phương so với thu nhập bình quân đầu người của cả nước; quyết định chính sách khuyến khích tiếp cận nhà ở xã hội đối với đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội có từ 3 người phụ thuộc trở lên trong cùng một hộ gia đình.
Như vậy, theo quy định mới thì điều kiện thu nhập khi mua nhà ở xã hội đã được điều chỉnh từ 15 triệu đồng lên 20 triệu đồng đối với người đứng đơn là người chưa kết hôn; người đứng đơn là độc thân đang nuôi con dưới tuổi thành niên thì thu nhập bình quân hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng, người đứng đơn và vợ (chồng) có tổng thu nhập bình quân hàng tháng thực nhận không quá 40 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương.
Đối với trường hợp đối tượng quy định tại khoản 5, Điều 76 của Luật Nhà ở trong trường hợp không có hợp đồng lao động, thì phải đảm bảo điều kiện về thu nhập theo quy định tại khoản 1 Điều này và được cơ quan Công an cấp xã nơi thường trú hoặc tạm trú hoặc nơi ở hiện tại xác nhận.
Đáng chú ý, trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xác nhận, cơ quan Công an cấp xã nơi thường trú hoặc tạm trú hoặc nơi ở tại thời điểm đối tượng đề nghị xác nhận căn cứ thông tin cơ sở dữ liệu về dân cư để thực hiện việc xác nhận điều kiện về thu nhập, Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản cho biết thêm.
Điều kiện về nhà ở để mua nhà ở xã hội với lao động tự do là người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị ra sao?
Dưới góc nhìn pháp lý, Luật sư Ngô Trọng Nghĩa, Trưởng chi nhánh Đống Đa - Công ty Luật TNHH Hà Chi cho biết, theo quy định tại khoản 5, Điều 76 của Luật Nhà ở 2023 quy định đối tượng là người thu nhập thấp tại khu vực đô thị thuộc diện được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội. Đối với trường hợp không có hợp đồng lao động, họ cần có xác nhận về thu nhập của cơ quan Công an cấp xã nơi thường trú hoặc tạm trú để chứng minh điều kiện này.
Trường hợp chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình được xác định khi đối tượng quy định tại khoản 1, Điều 77 Luật Nhà ở 2023 và vợ hoặc chồng của đối tượng đó (nếu có) không có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có dự án nhà ở xã hội đó tại thời điểm nộp hồ sơ đăng ký mua, thuê mua nhà ở xã hội.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xác nhận có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, Văn phòng/Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có dự án nhà ở xã hội đó thực hiện việc xác nhận đối với trường hợp quy định tại khoản này.
Trách nhiệm xác nhận cho đối tượng vào đơn đề nghị có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của Văn phòng/Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại khoản này do Văn phòng đăng ký đất đai/Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai đặt tại các đơn vị hành chính cấp xã hoặc khu vực liên xã, phường thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có dự án nhà ở xã hội thực hiện bởi khoản 2, Điều 14 Nghị định số 140/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/07/2025 (văn bản hết hiệu lực kể từ ngày 01/03/2027).
Đối với trường hợp đối tượng quy định tại khoản 1, Điều 77 Luật Nhà ở 2023 có nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích nhà ở bình quân đầu người thấp hơn 15m2 sàn/người. Diện tích nhà ở bình quân đầu người quy định tại khoản này được xác định trên cơ sở bao gồm: Người đứng đơn, vợ (chồng) của người đó, cha, mẹ (nếu có) và các con của người đó (nếu có) đăng ký thường trú tại căn nhà đó.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị xác nhận diện tích nhà ở bình quân đầu người, UBND cấp xã thực hiện việc xác nhận đối với trường hợp quy định tại khoản này.