Chuyện chưa kể về huyền thoại cách mạng Nguyễn Hữu Thọ
Trong một buổi chiều lặng lẽ nhưng đầy cảm xúc, Phóng viên Tạp chí Tiếp thị và Gia đình đã có dịp gặp gỡ ông Nguyễn Hữu Châu – con trai của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, vị Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Quyền Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội – người đã đặt bút ký công bố bản Hiến pháp năm 1980.
Quy định mới về chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHYT, doanh nghiệp sẽ bị xử lý hình sự nếu vi phạm
Vụ HIUP và lời cảnh tỉnh cho giới nghệ sĩ khi quảng cáo: Danh tiếng không thể là 'tấm khiên' bảo vệ
Ngủ mà gặp 5 biểu hiện này: Đừng chủ quan, đột quỵ có thể 'ghé thăm' bất cứ lúc nào trong đêm
Cuộc trò chuyện không chỉ là những dòng hồi ức về một nhà lãnh đạo kiên cường, mà còn hé mở bức chân dung đời thường đầy nhân văn của người đàn ông suốt đời tận hiến vì dân tộc. Qua lời kể của người con trai, hình ảnh Luật sư Nguyễn Hữu Thọ hiện lên không chỉ với hào quang của một chính khách vĩ đại, mà còn là một người cha giàu tình yêu thương, một tấm gương đạo đức sống mãi với thời gian.
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ – Từ sinh viên trên đất Pháp đến người lãnh đạo phong trào đấu tranh miền Nam
Theo lời kể của ông Nguyễn Hữu Châu, ngay từ khi còn là sinh viên du học tại Pháp – nơi phồn hoa và sung túc, ông Nguyễn Hữu Thọ đã mang trong lòng nhiều trăn trở. Giữa chốn đô thị văn minh của nước Pháp, ông vẫn day dứt với câu hỏi: “Vì sao người dân Việt Nam vẫn sống khổ cực như thế?” Và cũng chính tại đây, ông may mắn biết đến tên tuổi của Nguyễn Tất Thành – tức Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đang kiên cường đấu tranh để giải phóng dân tộc Việt Nam. Mặc dù chưa một lần gặp Bác Hồ, nhưng tư tưởng yêu nước của Bác đã thắp lên trong ông niềm tin mạnh mẽ và định hướng cuộc đời ông từ đó.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật và trở thành luật sư, ông trở về nước, bắt đầu dấn thân vào con đường đấu tranh. Ông biện hộ miễn phí cho những người nghèo, cho các cán bộ cách mạng bị xét xử – một việc làm đầy nguy hiểm trong thời kỳ thực dân còn thống trị. Ông sớm tham gia các hoạt động kháng chiến chống phát xít từ năm 1943, rồi dần tiếp cận phong trào cách mạng.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, ông Nguyễn Hữu Thọ vỡ òa trong niềm tin tưởng: Người mà ông tin yêu từ lâu nay chính là lãnh tụ của đất nước. Từ đây, ông quyết tâm dấn thân mạnh mẽ hơn. Trong những năm 1950–1955, ông cùng các trí thức Sài Gòn nhiều lần ra tuyên bố, yêu cầu Chính phủ Pháp thương lượng với Chủ tịch Hồ Chí Minh để lập lại hòa bình. Các hoạt động yêu nước ngày càng rõ nét, khiến ông trở thành cái gai trong mắt chính quyền thực dân.
Với lòng trung thành tuyệt đối với lý tưởng Hồ Chí Minh, ông mạnh dạn đứng lên phản đối sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam – cụ thể là việc đưa Hạm đội 7 vào Sài Gòn năm 1950. Ông công khai đại diện các giới nhân sĩ Sài Gòn – Gia Định, kêu gọi đồng bào phản đối đế quốc Mỹ.
Những khẩu hiệu như “chống can thiệp Mỹ” vang lên mạnh mẽ trong các phong trào quần chúng và qua những bài báo với danh nghĩa luật sư. Dù công khai đấu tranh, nhưng bên trong, ông đã âm thầm gia nhập Đảng từ năm 1949 – đó là lớp vỏ bọc giúp ông hoạt động linh hoạt giữa hợp pháp và bất hợp pháp.

Chính quyền Sài Gòn nhiều lần bắt giam ông: từ khám Chí Hòa, Gia Định đến trại giam ở Sơn Tây, Lai Châu. Đặc biệt, sau phong trào học sinh – sinh viên ngày 9/1/1950 lan rộng, chính quyền thực dân càng siết chặt gọng kìm với ông. Dù vậy, ông chưa bao giờ chùn bước. Khi Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống bù nhìn, luật sư Nguyễn Hữu Thọ tiếp tục bị bắt giam và lưu đày ở Phú Yên – nơi mà chế độ muốn ông chết dần chết mòn trong âm thầm. Nhiều lần bị tra tấn tinh thần, kéo dài thời gian giam giữ với lý do “ngoan cố”.
Năm 1961, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm tổ chức giải thoát ông khỏi nhà tù Phú Yên. Ngay sau đó, ông được tin tưởng giao trọng trách làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam – một tổ chức đóng vai trò chủ chốt trong cuộc kháng chiến ở miền Nam.
Từ một sinh viên yêu nước, một luật sư với lòng trắc ẩn, ông Nguyễn Hữu Thọ đã trải qua 4.000 ngày tù đày, tra tấn, thử thách, để rồi trở thành một trong những lãnh đạo cách mạng có ảnh hưởng lớn nhất ở miền Nam. Động lực xuyên suốt hành trình ấy là niềm tin tuyệt đối vào con đường Hồ Chí Minh – con đường giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam.
Cha tôi không để lại tài sản, nhưng để lại một di sản tinh thần vô giá
Ông Nguyễn Hữu Châu kể, Luật sư đã từng chia sẻ với tôi rằng: “Chừng nào đất nước còn nô lệ, thì ba chưa thể nghĩ đến hạnh phúc gia đình. Chỉ khi nào đất nước giành được độc lập, tự do, trở thành một quốc gia thực sự hạnh phúc, thì gia đình mình mới có được hạnh phúc trọn vẹn”. Chính lý tưởng đó là động lực mạnh mẽ giúp gia đình chúng tôi vượt qua bao khó khăn, thử thách.
“Những năm ấy, vì hoạt động cách mạng, luật sư bị theo dõi gắt gao bởi CIA. Vợ ông (tức mẹ tôi – pv) cũng vì liên lụy mà bị bắt, bị giam tù và sau này mang bệnh tâm thần. Dù mẹ không còn khả năng hoạt động gì, nhưng họ vẫn không buông tha. Đến năm 1962, khi tôi đã rời nhà vào được chiến khu để chiến đấu, ở nhà chỉ còn mẹ, chị và em, vậy mà họ vẫn tiếp tục theo dõi”, ông Nguyễn Hữu Châu kể lại.

Ông Châu nhớ lại, ở quê nhà, gia đình tôi sống trong nghèo khổ tột cùng, trong suốt hơn 4.000 ngày ba tôi bị tù đày, chúng tôi gần như không có thu nhập. Cả nhà sống chen chúc trong căn phòng chỉ vỏn vẹn 20m2. Chúng tôi ngủ dưới đất, dùng chung một không gian cho việc ăn uống, nấu nướng và tắm giặt. Việc vệ sinh phải nhờ vào nhà vệ sinh công cộng. Nhưng tất cả những điều đó, chúng tôi đều cố gắng chịu đựng, vì như ba tôi đã dặn: “Phải chịu đựng cho đến ngày đất nước được giải phóng”.
Khi tôi vào chiến khu, ba có nói với tôi rằng: “Con vào đây là để gặp ba một lần thôi, sau đó hãy gắn bó với cách mạng, với nơi mà con sẽ ở và chiến đấu”.
Sau đó, tôi được phân công về chỗ chú đồng chí Nguyễn Văn Linh – người phụ trách Ban Tuyên huấn của Trung ương Cục. Tôi được giao làm phát thanh viên phát sóng chương trình Giải phóng bằng tiếng Pháp. Khi ấy còn là học sinh, tôi nghĩ nhiệm vụ đó chắc cũng không quá khó. Nhưng thực tế thì hoàn toàn khác. Mấy tháng đầu vào chiến khu, tôi không được làm phát thanh ngay mà phải cùng mọi người đi tải gạo, tải đạn, sản xuất, chiến đấu, đào giếng, xây nhà – mọi việc đều phải làm.
Chính trong quá trình rèn luyện gian khổ đó, tôi mới thực sự hiểu được nỗi vất vả, cực nhọc của đồng bào. Trước kia, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi không hề để ý hay thấu cảm được điều đó. Cũng từ đây, tôi rút ra một bài học lớn: người cán bộ cách mạng phải gần dân, hiểu dân. Nếu mình chỉ sống giữa dân mà lòng thì xa dân thì chẳng khác gì sống biệt lập. Còn khi mình được rèn luyện giữa dân, sống cùng dân, làm việc cùng dân, thì mới thật sự thấu cảm và gắn bó. Chính điều đó đã trở thành một dấu ấn sâu đậm trong tôi – bài học mà tôi luôn mang theo đến tận hôm nay.

Từ ngày đầu vào chiến khu cho đến sau này khi trở lại thành phố, tôi luôn cố gắng sống giản dị, giữ bản sắc dân tộc, theo đúng tấm gương Bác Hồ. Cách ăn mặc, sinh hoạt, tư duy – tất cả đều giữ sự mộc mạc, chân thành như khi còn trong chiến khu. Điều lớn nhất tôi học được, chính là đặt dân lên hàng đầu, xem dân là gốc. Nhờ vậy, tôi luôn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, dẫu gian khổ ra sao.
Theo ông Nguyễn Hữu Châu, với tôi, bên cạnh Bác Hồ, tấm gương lớn nhất đời ông chính cha mình – Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Ông không chỉ là người cha, mà là một tấm gương sống động về lòng yêu nước, đức hy sinh và sự liêm chính.
“Ba tôi từng là luật sư, sống trong nhà lầu, có đầy đủ điều kiện vật chất. Thế nhưng, ông sẵn sàng từ bỏ tất cả để dấn thân cho cách mạng. Khi đất nước giải phóng, ông giữ những cương vị cao nhất – Phó Chủ tịch nước, rồi Quyền Chủ tịch nước. Nhưng dù ở vị trí nào, ông vẫn sống giản dị, khiêm nhường. Đến lúc cuối đời, tài sản cá nhân chỉ là vài đồng tiết kiệm từ lương. Vậy mà ông vẫn dành những đồng tiền ít ỏi đó để giúp đỡ người thân khó khăn, nghĩ đến các em mồ côi, những người kém may mắn trong xã hội”, ông Nguyễn Hữu Châu chia sẻ.
Tôi nhận ra: Ba tôi không để lại vàng bạc, nhà cửa; nhưng ông để lại cho gia đình một tài sản vô hình quý giá hơn rất nhiều – đó là tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, sự liêm chính, và lý tưởng sống cống hiến. Ông dạy chúng tôi rằng: sống là để phụng sự, để mang hạnh phúc cho người khác, và không bao giờ được đánh đổi lương tri lấy tiền bạc.
Đó là lý do vì sao, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng gọi luật sư Nguyễn Hữu Thọ là “nhà yêu nước vĩ đại, đã cống hiến gần cả cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân, và nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi nhớ đến người Việt Nam anh hùng ấy”.