Khám phá nét văn hoá đặc trưng của cư dân vùng biển với lễ hội Cầu ngư
(Tiepthivagiadinh) - Đối với đời sống cộng đồng cư dân biển, lễ hội Cầu ngư được coi là lễ cầu mùa - cầu ngư hay lễ tế ngư thần và cầu xin thần ban cho một năm “trời yên biển lặng, tôm cá đầy khoang”.
Tổng quan về lễ hội Cầu ngư
Lễ hội Cầu ngư không chỉ thể hiện bản sắc văn hoá dân gian mang tính vùng miền của ngư dân, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy sự đa dạng của bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh đó, lễ hội Cầu ngư chính là nguồn sử liệu, là những bằng chứng xác thực về chủ quyền biển đảo và kinh nghiệm ứng xử với biển đảo của các thế hệ người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Lễ hội Cầu ngư nhằm cầu quốc thái, dân an, trời yên biển lặng, cầu cho ngư dân đi biển được mùa bội thu. Đây còn là một nét đẹp văn hoá địa phương, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tri ân các thế hệ tiền nhân đã góp phần xây dựng nghề biển.
Đồng thời, lễ hội còn là nơi lưu giữ các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống và là một lễ hội quan trọng cần được duy trì bảo tồn và phát huy.
Một số lễ hội Cầu ngư nổi tiếng tại các vùng ven biển Trung Bộ và Nam Bộ
Lễ hội Cầu ngư Đà Nẵng
Thời gian diễn ra lễ hội Cầu ngư Đà Nẵng
Lễ hội Cầu ngư còn có tên gọi khác là lễ hội Cá Ông hoặc lễ tế Cá Voi, được xem là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân tại Thành phố Đà Nẵng. Lễ hội thường diễn ra hằng năm sau Tết Nguyên Đán.
Lễ hội Cầu ngư được tổ chức tại các vùng ven biển như Mân Thái, Hoà Hiệp, Thọ Quang, Xuân Hà và Thanh Lộc Đán. Đến với lễ hội, du khách sẽ có trải nghiệm khám phá văn hoá vùng miền và tham gia hoạt động đặc sắc.
Nguồn gốc và ý nghĩa lễ hội Cầu ngư
Theo truyền thuyết ngư dân kể lại, vào thế kỷ XVIII, trong một trận chiến, chúa Nguyễn Ánh có nguy cơ bị bắt. Ông đã thành tâm gửi lời nguyện cầu lên các vị thần mở cho mình một con đường để trốn thoát. Đúng vào lúc đó, có 2 con cá voi phóng lên khỏi mặt nước biển, giúp thuyền của Nguyễn Ánh thoát khỏi vòng vây một cách thần kỳ. Sau này khi đã lên ngôi, vì muốn tỏ lòng biết ơn, chúa Nguyễn Ánh đã tuyên bố, mọi loài cá voi sinh sống ở vùng biển Việt Nam đều phải được tôn thờ và kính trọng như một vị thần. Nguồn gốc ra đời của lễ hội Cầu Ngư cũng bắt nguồn từ đó.
Lễ hội Cầu ngư ở Đà Nẵng không chỉ mang ý nghĩa tâm linh – tín ngưỡng mà còn là một nét văn hóa đặc trưng của ngư dân ven biển miền Trung, là cách để bà con ngư dân bày tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân, đồng thời mong muốn cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống của mọi người luôn đủ đầy, ấm no hạnh phúc.
Vào năm 2019 “Lễ hội Cầu ngư thành phố Đà Nẵng” được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Các hoạt động nổi bật tại lễ hội Cầu ngư Đà Nẵng
Phần lễ
Lễ hội Cầu Ngư được diễn ra trong 2 ngày. Ở ngày đầu tiên là nghi thức thiết lễ tiên thường, sang ngày thứ 2 là lễ tế chính thức. Điểm đặc biệt nhất ở phần lễ là khu vực bàn thờ chính được bày biện và trang hoàng vô cùng trang nghiêm và lộng lẫy. Ngoài ra, mỗi nhà của ngư dân cũng đều đặt một bàn hương án nhỏ để bày đồ lễ cúng. Phía xa ngoài biển, những chiếc tàu thuyền được chăng đèn kết hoa khiến không khí lễ hội càng trở nên rực rỡ, sắc màu.
Đối với các nghi lễ chính, vị chánh bái (vị cao niên có uy tín ở làng chài, không mắc tang chế) sẽ thay mặt người dân dâng đồ tế lễ và đọc văn tế thể hiện lòng biết ơn của ngư dân đối với công đức của Cá Ông và gửi gắm ước nguyện mong có một mùa đánh bắt mới bội thu, trời yên biển lặng, thuyền bè ra khơi đều bình an quay về.
Phần hội
Phần hội chính là phần được người dân lẫn du khách mong chờ nhất. Mở màn là cuộc thi đua thuyền truyền thống náo nhiệt dưới sự cổ vũ và tiếng hò reo phấn khích của dân làng và du khách.
Tiếp nối cuộc thi đua thuyền là những trò chơi dân gian cũng không kém phần thú vị như: lắc thúng, thi bơi lội, kéo co, đá bóng… và các chương trình văn nghệ thể hiện đậm nét văn hóa của người dân nơi đây: hát tuồng, hát hò khoan… Trong đó, tiết mục múa hát bả trạo (bả: nắm, trạo: chèo đò) được xem là hình thức múa hát đặc trưng nhất của lễ hội Cầu Ngư Đà Nẵng, mang ý nghĩa diễn tả tinh thần đùm bọc, đoàn kết giữa các thành viên ở trên một con thuyền, cùng nhau vượt qua sóng to gió lớn để mang về mùa cá bội thu cho ngư dân.
Lễ hội Cầu ngư Khánh Hòa
Nguồn gốc lễ hội Cầu ngư ở Khánh Hòa
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa bắt nguồn từ tục thờ Ông Nam Hải. Ông Nam Hải là cách gọi trang nghiêm của người dân vùng biển miền Nam Trung Bộ dành cho cá voi – loài cá tượng trưng cho điềm lành với thân hình to lớn, thường cứu giúp ngư dân khi gặp nạn trên biển. Người dân xem cá voi là một trong những vị thần biển linh thiêng. Khi cá chết trôi dạt vào bờ, dân làng chài thường làm tang lễ long trọng và thờ ở Lăng Ông.
Thời gian
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa thường diễn ra vào mùa đánh bắt hằng năm trong 3 ngày 3 đêm, khoảng tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch. Lễ hội Cầu ngư Khánh Hòa là một trong những lễ hội ở Nha Trang mang đậm bản sắc văn hoá của người vùng biển, trở thành phong tục của người dân từ bao đời nay.
Ý nghĩa lễ hội Cầu ngư Khánh Hoà
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa là ngày hội lớn của người dân làng biển, thể hiện niềm tin của con người vào những giá trị tốt đẹp, ý chí vượt gian lao, không ngại khó để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Đồng thời, nó còn thể hiện lòng biết ơn, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta, tạo nên sự gắn kết cộng đồng của cư dân vùng biển từ bao đời.
Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa tái hiện nét đẹp lao động của cư dân vùng biển dưới các hình thức trò diễn dân gian, tế lễ, các loại hình nghệ thuật truyền thống. Từ đây, vốn văn hóa dân gian, nghệ thuật truyền thống của vùng đất Nam Trung Bộ được nuôi dưỡng, kế thừa, giúp giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha. Lễ hội độc đáo này còn góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mảnh đất Khánh Hòa.
Một số hoạt động đặc sắc tại lễ hội Cầu ngư Khánh Hoà
Lễ hội Cầu ngư thường mở đầu bằng lễ Rước Sắc, diễn ra vào buổi sáng đầu tiên của lễ hội. Lễ được thực hiện trang trọng bởi các lão ông lớn tuổi trong làng bao gồm 3 phần: khai sắc, Thỉnh sắc và Rước sắc.
Lễ Nghinh Ông thường được tổ chức vào lúc sáng sớm khi thuỷ triều lên. Đây là nghi thức nhằm rước hồn Ông Nam Hải từ ngoài biển khơi về với Lăng thờ để làm lễ Tế Chánh. Lễ kéo dài trong hai giờ, diễn ra trên biển với đoàn thuyền ghe ra khơi để rước Ông Nam Hải. Khi đoàn thuyền trở về, đội Siêu sẽ múa trước điện để mừng Ông Nam Hải nhập điện, về với dân làng. Không khí lễ Nghinh Ông vui tươi, nhộn nhịp với tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, thu hút không chỉ người làng mà còn rất đông du khách đến xem.
Hò Bá Trạo là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính tổng hợp (múa, hát, nói,..), đậm tính nghi lễ của cư dân vùng biển Nam Trung Bộ. Đây cũng là đặc trưng của lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa. Đội hò thường gồm 15 đến 19 nam thanh niên biểu diễn. Hò Bá Trạo tái hiện cảnh sinh hoạt, lao động của người dân làng chài qua các hoạt động: chèo thuyền, thả lưới, vượt sóng to gió lớn khi ra khơi,...
Sau khi xong phần Hò Bá Trạo, là giờ phút diễn ra phần lễ thiêng liêng và quan trọng nhất – lễ Tế Chánh. Lễ diễn ra trong 1 giờ đồng hồ, kéo dài từ 10 đến 11 giờ trưa. Phần lễ này được thực hiện trang nghiêm long trọng thể hiện sự tôn trọng, thành kính dành cho đức Ông Nam Hải, cầu mong Ông bảo trợ, che chở cho người ra khơi.
Thứ lễ là phần hát cúng thần. Lễ này không bắt buộc nên thường 2, 3 năm mới thực hiện một lần. Phần này, người làng sẽ mời các đoàn hát bội về hát để phục vụ bà con nhằm thể hiện niềm vui, niềm biết ơn dành cho Ông Nam Hải khi kết thúc một mùa cá nhiều thu hoạch và bắt đầu một năm đánh bắt mới bội thu.
Tôn vương là nghi thức kết thúc lễ hội Cầu Ngư do đoàn hát bội thực hiện. Phần này thường kéo dài cả ngày đêm, thu hút bà con đến thưởng thức. Những người hát bội sẽ thể hiện những khúc ca tươi đẹp về cuộc sống, thể hiện mơ ước về một mùa màng bội thu, ấm no phía trước.
Lễ Tông Na là lễ cúng cô hồn biển. Lễ được tổ chức ở góc sân Lăng với một chiếc bàn nhỏ quay về hướng đông. Phía trước bàn thờ đặt một chiếc ghe nhỏ làm bằng nan được mô phỏng giống chiếc thuyền đánh cá lớn. Khi lễ cúng hoàn tất, người ta lấy mỗi vật tế một ít đưa lên thuyền. Sau đó, đoàn đi tống na sẽ rước thuyền ra biển.
Chiếc ghe nhỏ được đưa ra khơi để hạ thủy nhằm tiễn đưa các vong hồn về với biển cả bao la và gửi chút lòng thành của người làng đến những vong hồn không đến được lễ hội Cầu Ngư. Xong xuôi, tất cả quay lại Lăng Ông làm lễ hoàn mãn.
Lễ hội Cầu ngư Phú Yên
Nguồn gốc
Lễ hội cầu ngư gắn liền với tín ngưỡng thờ cá Ông đã có từ xa xưa. “Ông” là tên gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi. Theo quan niệm của ngư dân, cá Ông là loài cá thường giúp con người vượt qua hiểm nguy khi lênh đênh trên biển cả. Vì vậy, cá Ông được tôn thờ và có một vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh của ngư dân.
Lễ hội cầu ngư bao giờ cũng được tổ chức một cách long trọng. Tín ngưỡng thờ cá Ông và lễ hội cầu ngư gắn liền với lăng Ông. Dọc các địa phương ven biển Phú Yên có khá nhiều lăng Ông. Hiện toàn tỉnh có 41 lăng Ông và nơi nào có lăng Ông thì nơi đó đều tổ chức lễ hội cầu ngư. Lăng Ông là nơi diễn ra hầu hết các nghi thức cúng tế trong lễ hội cầu ngư. Kiến trúc nghệ thuật và ứng dụng thực tế của lăng Ông được miêu tả kỹ lưỡng và là một yếu tố quan trọng trong hồ sơ công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội cầu ngư Phú Yên.
Theo đó, lăng Ông cơ bản mang dáng dấp của một ngôi đình. Lăng thường được xây gần sông, biển và quay về hướng đông. Tổng thể lăng thường chia làm ba phần. Phần trước là võ ca (sân khấu). Phần giữa là chánh điện thờ ngọc cốt cá Ông, bài vị các vị thủy thần, tiền hiền, hậu hiền. Phần nhà sau dùng làm nơi hội họp và tiếp khách. Phía trước sân lăng có bình phong đắp nổi hoa văn long, ly, quy, phụng. Ngoài cổng có hai trụ biểu, một số nơi có tường bao quanh. Các dấu tích kiến trúc và hiện vật, tư liệu như tượng cổ, bài vị, sắc phong… cho thấy một số lăng Ông được xây dựng từ rất lâu đời. Những lăng Ông ở thôn Hòa Lợi (TX Sông Cầu), Tiên Châu (Tuy An), Phú Câu (Tuy Hòa), Phú Lạc (Đông Hòa)… có thể đã được xây dựng cùng với quá trình hình thành những làng xã đầu tiên ở Phú Yên vào các thế kỷ XVI, XVII.
Các hoạt động tại lễ hội Cầu ngư Phú Yên
Ngoài nghi lễ đặc sắc, nét nổi trội làm nên thành công của lễ hội cầu ngư là hoạt động diễn xướng dân gian phong phú và đa dạng. Trước tiên phải nói đến loại hình nghệ thuật hát bả trạo. Hát bả trạo là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính chất nghi lễ trong lễ hội cầu ngư. Hát bả trạo còn gọi là hò đưa linh, chèo cầu ngư, hát bạn chèo đưa Ông.
“Bả là cầm nắm, trạo là mái chèo. Trong hát bả trạo, lời hát và động tác múa diễn tả lại quá trình đi biển, từ lúc thuyền ra khơi đánh cá cho đến lúc thuyền trở về bình yên. Trong hành trình đó có lúc sóng êm biển lặng, gió mát trăng thanh, buông câu thả lưới…; có lúc phải vất vả chống chọi lại với gió to, sóng cả, giông tố hiểm nguy.
Đội hình chèo thuyền gồm tổng mũi ở phía trước, tổng lái ở phía sau, tổng thương ở giữa và các tay chèo. Đây là loại hình diễn xướng tổng hợp nhiều làn điệu dân ca như: hò, vè, lý, hát tuồng, nói lối… Nội dung hát của bả trạo gần như một vở diễn nên lời hát rất phong phú và sinh động”.
Cùng với hát bả trạo, còn có hát tuồng (hát bội) là loại hình nghệ thuật không thể thiếu trong các lễ hội cầu ngư. “Hát tuồng trong lễ hội cầu ngư còn gọi là hát thứ lễ, hát án hay hát cúng lăng. Khai chầu hát thường là những tuồng tích như: “Tiết Nhơn Quý chinh đông”, “Lưu Kim Đính hạ san”, “Mộc Quế Anh dâng cây”… Kết thúc kỳ hát bao giờ cũng có màn “tôn vương”, thường là tuồng “San Hậu”, mang hàm ý “hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai”… Thời gian diễn tuồng trong lễ hội có thể từ một đến vài đêm”.
Trong lễ hội cầu ngư còn có các hoạt động như: đua thuyền, đua sõng, lắc thúng chai, đi cà kheo, kéo co, đấu võ cổ truyền và những hoạt động văn nghệ quần chúng đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của bà con về dự lễ hội.
Thời gian
Về thời gian diễn ra lễ hội cầu ngư thì không có ngày thống nhất chung, mà mỗi nơi, tùy thuộc vào ngày cá Ông đầu tiên lụy hoặc ngày nhận sắc vua phong hoặc theo phong tục, công việc làm ăn mà ban lạch cùng bà con trong làng định ngày mở lễ hội. Nhưng nhìn chung, các lễ hội cầu ngư thường diễn ra từ tháng 3-8 âm lịch.
Lễ hội cầu ngư thường được tổ chức ít nhất hai ngày. Chiều ngày thứ nhất, ban lạch làm lễ rước Ông sanh (nghinh Ông). Ngư dân đưa kiệu ra cửa biển rước Ông và các thủy thần về dinh lăng an vị. Sáng sớm ngày thứ hai, lễ hội được tiếp tục với các lễ cúng yết, dâng lễ vật, dâng trầu, dâng rượu. Buổi trưa đến chiều tối là thời gian tổ chức lễ cúng khai tiên. Chi phí cúng tế do bà con tự đóng góp.
Như vậy, lễ hội Cầu ngư trở thành sản phẩm văn hoá đặc trưng của cộng đồng cư dân vùng biển Trung Bộ và Nam Bộ với tín ngưỡng thờ cá Ông. Lễ hội giúp gia tăng tinh thần đoàn kết cộng đồng, giúp người dân vững vàng ra khơi bám biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.