Góp ý đề xuất không được thu giữ tài sản đảm bảo bằng biện pháp “trái đạo đức xã hội”, các ngân hàng phản hồi thế nào?
Quy định các ngân hàng không được thu giữ tài sản bảo đảm bằng các biện pháp vi phạm đạo đức xã hội được Ngân hàng Nhà nước đề xuất, khiến nhiều ngân hàng thương mại bày tỏ băn khoăn.
Đề xuất biện pháp xử lý khách 'quỵt nợ' vay tín dụng
Bất động sản trăm tỷ ế ẩm: Ngân hàng liên tục đại hạ giá vẫn không ai hỏi mua
Đối tượng nào sẽ được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ sau bão số 3?
Đề xuất bỏ cụm từ “trái đạo đức” trong quy định thu hồi tài sản
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã lấy ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó đề xuất luật hóa một số nội dung của Nghị quyết 42/2017/QH14. Theo dự thảo, quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng sẽ được đảm bảo tốt hơn khi được công nhận quyền thu giữ tài sản bảo đảm với điều kiện đáp ứng các yêu cầu cụ thể.
Trong đó, Ngân hàng Nhà nước đề xuất: “Trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”.

Liên quan đến quy định này, đại diện Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đề xuất, để đảm bảo rõ ràng, giảm thiểu vướng mắc trong quá trình áp dụng văn bản, cơ quan soạn thảo cần bổ sung quy định, hướng dẫn cụ thể về các biện pháp mà các tổ chức tín dụng bị cấm thực hiện trong quá trình thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm.
Trong khi đó, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) lại kiến nghị loại bỏ cụm từ “trái đạo đức xã hội”, với lý do khái niệm này dù có được định nghĩa trong Bộ luật Dân sự nhưng là nội dung khó xác định, phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan, có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức tín dụng khi thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm.
Ngân hàng này cho rằng, nếu quá trình thu giữ tài sản đảm bảo không được thực hiện quyết liệt, chủ tài sản có thể tiếp tục chống đối, làm giảm hiệu quả xử lý nợ. Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước không chấp nhận đề xuất của VPBank, do đây là nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự.
Không có thỏa thuận trước, ngân hàng không được thu giữ tài sản đảm bảo
Tiếp đó, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng nhằm luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14 cũng quy định, một trong những điều kiện để tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản bảo đảm là: “Tại hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật.”
Tuy nhiên, nhiều ngân hàng thương mại đề xuất được quyền thu giữ tài sản bảo đảm ngay cả khi không có thỏa thuận giữa các bên. Theo đại diện Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), phần lớn các hợp đồng bảo đảm ký kết trước đây không quy định nội dung này, do tại thời điểm ký kết, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và sau đó là Bộ luật Dân sự 2015 đều không đề cập đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Do đó, để áp dụng quyền thu giữ theo quy định mới, các tổ chức tín dụng phải đàm phán sửa đổi hợp đồng với khách hàng, nhưng phần lớn khách hàng không hợp tác (không ký).
Tương tự, phía Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cũng cho rằng hầu hết khách hàng không đồng ý ký kết thỏa thuận bổ sung. Điều này khiến các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn trong việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Điều 7 Nghị quyết số 42 và Điều 198a Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng.
Cùng đó, đại diện Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) đề xuất, để thuận lợi cho các bên trong việc xác lập thỏa thuận về việc thu giữ tài sản cũng như tạo thuận lợi cho tổ chức tín dụng trong việc đáp ứng các điều kiện để thực hiện quyền thu giữ, Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh quy định theo hướng cho phép thỏa thuận về quyền thu giữ tài sản bảo đảm có thể được ghi nhận trong hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác.
Ngoài ra, VietinBank, VPBank cũng cho hay, trên thực tế, tranh chấp liên quan đến tài sản có rất nhiều loại: Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong giao dịch liên quan đến tài sản như cho thuê, cho mượn, hứa mua hứa bán, đặt cọc... Trong đó, tranh chấp về quyền sở hữu tài sản bảo đảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền xử lý tài sản của tổ chức tín dụng.
Chính vì thế, các ngân hàng đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét quy định rõ tranh chấp trong trường hợp này là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản bảo đảm để đảm bảo tính thống nhất trong việc hiểu và xác định điều kiện thu giữ tài sản đảm bảo, tránh việc bên bảo đảm lợi dụng quy định này cố tình tạo ra một tranh chấp bất kỳ liên quan đến tài sản bảo đảm nhằm ngăn cản tổ chức tín dụng thực hiện quyền thu giữ.
Phản hồi đề xuất trên, Ngân hàng Nhà nước không chấp thuận các ý kiến này. Ngân hàng Nhà nước cho biết, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, quyền tài sản của tổ chức, cá nhân được pháp luật công nhận và bảo hộ. Đồng thời, quyền đòi nợ của bên cho vay cũng là quyền hợp pháp, nhưng việc thực hiện phải tuân thủ quy định và dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng.
“Mục tiêu của dự thảo Luật không chỉ hướng đến xử lý các hợp đồng đã ký mà còn áp dụng với các hợp đồng trong tương lai. Do vậy, quy định yêu cầu hợp đồng đảm bảo có điều khoản ghi nhận sự đồng ý của bên bảo đảm khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm là cần thiết để cân bằng quyền lợi giữa bên cho vay và bên bảo đảm/bên đi vay”, Ngân hàng Nhà nước thông tin.
Quy định này không chỉ giúp các bên rõ ràng về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hợp đồng cũng như các hành vi của mình, mà còn đảm bảo tính minh bạch và tự do thỏa thuận.