Đã đến lúc bỏ mô hình “Đại học vùng – Đại học hai cấp”?
Trong phiên thảo luận của Quốc hội về Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) mới đây, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh – Trưởng đoàn ĐBQH TP. Cần Thơ đã kiến nghị bỏ mô hình “Đại học vùng” ra khỏi quy định của luật.
Đề xuất này nhận được sự ủng hộ của nhiều chuyên gia và đại biểu, khi mô hình này sau hơn 20 năm vận hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với thực tiễn giáo dục đại học hiện nay.
Đồng thuận quan điểm, ThS. Dược sĩ Phan Văn Hiệu, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc CVI Pharma, đồng thời là thành viên Hội đồng Trường Đại học Y dược Thái Nguyên, cho rằng đã đến lúc cần một cuộc cách mạng trong tổ chức và quản lý hệ thống đại học.
Ông bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với chủ trương xem xét bãi bỏ mô hình “đại học vùng – đại học hai cấp”, đồng thời kiến nghị trao lại vai trò quản lý đào tạo nhân lực y tế cho Bộ Y tế.

Mô hình hai cấp từ kỳ vọng đến thực tế bất cập
Theo ông Hiệu, được hình thành cuối thập niên 1990, các đại học vùng từng được kỳ vọng trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu đa lĩnh vực, liên kết nhiều trường để tối ưu nguồn lực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thay vì hợp lực, các trường thành viên lại hoạt động rời rạc, còn “đại học mẹ” trở thành cấp quản lý trung gian, hạn chế quyền tự chủ của từng trường.
Ông Hiệu cho rằng, cơ cấu “hai cấp, ba tầng” khiến bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, làm giảm tốc độ ra quyết định và khả năng đổi mới và trái với tinh thần tự chủ mà Luật Giáo dục đại học hướng tới.
Một trong những trụ cột của giáo dục đại học là trao quyền tự chủ thực chất, nhưng mô hình hiện tại khiến các trường “một cổ hai tròng”: vừa chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản, vừa phụ thuộc vào đại học vùng. Việc phải “qua hai tầng” phê duyệt khiến nhiều cơ hội hợp tác, đầu tư và đổi mới bị bỏ lỡ.

Theo ông, thực tế hiện nay, các trường trong hệ thống đại học vùng không đạt được mục tiêu hợp lực, mà còn làm mờ thương hiệu riêng, gây khó khăn trong hợp tác quốc tế khi mô hình “trường trong trường” thiếu rõ ràng.
Trên thế giới, các đại học được trao quyền tự chủ cao, gắn với cơ chế giải trình minh bạch. Mỗi trường được tự quyết về tổ chức, tài chính, chương trình và nhân sự, nhờ đó phát triển năng động và sáng tạo. Trong khi đó, mô hình hai cấp của Việt Nam đã trở nên lạc nhịp với thông lệ quốc tế, làm giảm sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập giáo dục khu vực và toàn cầu.
“Việc bãi bỏ mô hình “đại học vùng” không chỉ là thay đổi kỹ thuật quản lý, mà là bước cải cách thể chế quan trọng, phù hợp với Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về tinh gọn bộ máy, xóa bỏ cấp trung gian và sắp xếp lại mạng lưới đại học theo hướng linh hoạt, hiệu quả hơn”, ông Hiệu nhận định.
Trả lại vai trò quản lý đào tạo y tế cho Bộ Y tế
Bên cạnh đó, ông Hiệu đồng tình với quan điểm của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trí Thức và Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội Phan Văn Mãi rằng: các trường Y Dược, Điều dưỡng, khối ngành sức khỏe cần được Bộ Y tế trực tiếp quản lý.

Ngành y có tính đặc thù cao, gắn liền với thực hành và hệ thống bệnh viện. Việc Bộ GD&ĐT cùng lúc quản lý cả khối ngành sức khỏe dễ dẫn đến đào tạo tràn lan, chất lượng không đảm bảo. Trả lại vai trò quản lý cho Bộ Y tế là cách tiếp cận đúng bản chất, phù hợp với mô hình đang được hơn 50 quốc gia áp dụng.
Theo ông Hiệu, việc bỏ mô hình đại học vùng không phải là phủ nhận quá khứ, mà là bước đi tất yếu để tháo gỡ nút thắt thể chế, trả lại quyền tự chủ thực chất cho các trường. Khi đó, mỗi đại học sẽ phát huy bản sắc, năng lực và chuyên môn riêng, hướng tới chất lượng và hiệu quả thực chất hơn.
“Đây là thời điểm quan trọng để Quốc hội, Chính phủ và Bộ Giáo dục & Đào tạo có quyết sách mạnh mẽ, đồng hành cùng các trường trong tiến trình đổi mới. Nếu không dám thay đổi, chúng ta sẽ còn đi chậm hơn chính tiềm năng của mình,” ông Phan Văn Hiệu nhấn mạnh.