Thứ hai, 16/06/2025
logo
Tiêu điểm

Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng: Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu

Lương Định Thứ hai, 16/06/2025, 14:14 (GMT+7)

Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, tên tuổi cố nhà báo Huỳnh Văn Tiểng (1920 – 2009) gắn liền với sự nghiệp phát thanh và truyền hình Việt Nam. Ông là một trong những người đầu tiên sáng lập ngành truyền hình, gắn bó với sự nghiệp phát thanh và truyền hình từ năm 1946, khi là ủy viên Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ với vai trò Trưởng khoa Tuyên truyền. Ông nguyên là Phó Tổng Biên tập Đài tiếng nói Việt Nam; Giám đốc Đài Truyền hình TP. HCM. Và là đại biểu Quốc hội từ khóa 1 đến khóa 5 (1946 – 1976, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam trong 24 năm (từ 1959 – 1983), được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất…

Chi hội Nhà báo Văn phòng đại diện, phóng viên thường trú tại Khánh Hòa trao tặng xe đạp cho học sinh nghèo vượt khó người Raglay

'Sắc màu trẻ thơ' tại vòng casting 'Tinh hoa nhí Việt Nam 2025'

Xếp bút nghiên” – Một thời để nhớ

Cố nhà báo Huỳnh Văn Tiểng, tên thật là Huỳnh Minh Siêng sinh ra và lớn lên ở xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, Sài Gòn (TP. HCM), tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Lúc sinh thời, khi trò chuyện với đồng nghiệp ông tự nhận mình chỉ là “hạt bụi trong cơn bão táp cách mạng”. Trong những năm 1936 – 1939 khi còn là học sinh Trường Pétrus Ký ông đã tham gia phong trào Đông Dương Đại hội, do Xứ ủy Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Ông là một trong những người tiên phong lập nhóm học sinh ủng hộ Đảng, lập các tủ sách Mác – xít, vận động học sinh lấy chữ ký kiến nghị phảm đối thực dân Pháp bắt giam các chiến sĩ cộng sản.

Đầu thập niên 1940 – 1943, ông tham gia lập phong trào Câu lạc bộ học sinh Sài Gòn và là Ủy viên Ban chấp hành Tổng hội sinh viên vận động phong trào sinh viên yêu nước bằng những ca khúc, ca kịch và truyền bá quốc ngữ cho thanh niên. Đồng thời cùng với những người bạn thân của mình là Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ thành lập nhón Huỳnh – Mai – Lưu gồm Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước hoạt động rất sôi nổi.

Nhóm “Hoàng – Mai – Lưu” từ trái qua phải: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng (ảnh nguồn tư liệu).
Nhóm “Hoàng – Mai – Lưu” từ trái qua phải: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng (ảnh nguồn tư liệu).

Ngay từ thời ấy, ông đã nổi tiếng trong phong trào học sinh sinh viên yêu nước khi là đồng tác giả (về phần lời) trong nhóm Huỳnh -  Mai -  Lưu, với rất nhiều ca khúc cách mạng: “Tiếng gọi thanh niên”, “Hội nghị Diên Hồng”, “Bạch Đằng Giang”, “Ải Chi Lăng”, “Lên đàng” (Lên đường)…Nhưng trong bộ ba nhóm tác giả này được công chúng biết đến và nhắc nhớ nhiều nhất vẫn là cố Giáo sư, Viện sĩ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước vì ông là người viết phần âm nhạc.

Sau khi đậu tú tài ở Trường Pétrus Ký ông ra Hà Nội học Đại học Luật, tiếp tục cùng nhóm Huỳnh – Mai – Lưu tham gia phong trào đấu tranh của thanh niên học sinh, sinh viên yêu nước. Thời gian này ông tích cực tham gia các hoạt động của Tổng hội sinh viên Đại học Đông Dương, do Dương Đức Hiền làm Chủ tịch. Đây là một trong nhũng tổ chức có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong giới sinh viên Hà Nội thời ấy. Tham gia tích cực và nổi bật là nhóm Huỳnh – Mai – Lưu và các nhiều sinh viên miền Nam trong Ban Âm nhạc của Tổng hội.

Để tuyên truyền, khích lệ cổ vũ tinh thần yêu nước của sinh viên, Tổng hội đã dàn dựng vở kịch “Đêm Lam Sơn” của ông. Đầu năm 1944, các sinh viên miền Nam trong Tổng hội phát động phong trào “xếp bút nghiên” để “mau về Nam” trực tiếp dấn thân tham gia cách mạng. Ông cùng nhón Huỳnh – Mai – Lưu và nhiều sinh viên miền Nam khác đang theo học đại học quyết “xếp bút nghiên”, đạp xe vượt hàng ngàn cây số từ Hà Nội về Sài Gòn.

Ngay khi về đến Sài Gòn, ông cùng Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ tham gia hàng ngũ Thanh niên Tiền phong là một tổ chức chính trị, xã hội hoạt động mạnh mẽ chủ yếu ở Nam kỳ thời ấy. Đây là tổ chức được thành lập nhằm tập hợp lực lượng thanh niên để đảm đương nhiệm vụ cần đến sức mạnh trong giai đoạn đấu tranh giải phóng nước nhà. Với nhiệt huyết của một sinh viên vừa “xếp bút nghiên” để về Nam, Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng tích cự tham gia vào cuộc vận động Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành thắng lợi vào ngày 25/8/1945 ở Sài Gòn. Nhưng chính quyền về tay nhân dân ở thành phố này chưa đầy một tháng thì ngày 23/9/1945 thực dân Pháp gây hấn và trở lại đánh chiếm Sài Gòn và vùng lân cận. Ngay trong đêm 23/9/1945 ông và nhiều người khác tỏa đi truyền lệnh kháng chiến tại Sài Gòn, sau đó được bầu làm Ủy viên Ủy ban Nhân dân Nam Bộ và Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, do ông Trần Văn Giàu làm Chủ tịch.

Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội của Sài Gòn – Chợ Lớn, tại cuộc họp Quốc hội khóa đầu tiên tháng 3/1946 ở Nhà hát Lớn (Hà Nội), ông đã thay mặt đại biểu Quốc hội Sài Gòn – Chợ Lớn đề nghị Quốc hội cho phép thành phố Sài Gòn được mang tên Hồ Chí Minh. Tháng 5/1946, ông tham gia tổ thư ký của đoàn đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng Hòa do đồng chí đồng chí Tôn Đức Thắng và đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Pháp trình bày quan điểm thống nhất ba kỳ, tôn trọng nền độc lập của Việt Nam.

Tâm huyết với phát thanh và truyền hình

Sau chuyến đi Pháp theo đoàn đại biểu Quốc hội, trở lại Sài Gòn, với cương vị là Ủy viên tuyên truyền của Uỷ ban Kháng chiến Nam bộ ông và một số thành viên khác xây dựng và phát sóng Đài Tiếng nói Nam Bộ với câu xướng mở đầu chương trình: “Đây là Tiếng nói Nam Bộ, tiếng nói đau đớn, tiếng nói căm hờn, tiếng nói chiến đấu”. Làm việc tại Đài Tiếng nói Nam Bộ, Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng là người viết những bài bình luận sắc bén, kịp thời cổ vũ tin thần hăng hái chiến đấu của quân, dân Nam Bộ bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, được đông đảo người nghe đài yêu thích. Ở Nam Bộ khi ấy sự ra đời của Đài Tiếng Nam Bộ cùng với các Đài Tiếng nói Đồng Tháp Mười, Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến qua làn sóng phát thanh đã góp phần tích cực vào việc tuyên truyền cổ vũ động viên kịp thời nhân dân Nam Bộ liên tiếp lập chiến công trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Chân dung cố nhá báo Huỳnh Văn Tiểng.
Chân dung cố nhá báo Huỳnh Văn Tiểng.

Là người có kinh nghiệm và gắn bó với sự nghiệp phát thanh từ năm 1946, khi là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, Trưởng Khoa Tuyên truyền, nên năm 1954, tập kết ra Bắc ông được giao nhiệm vụ Phó Tổng biên tập Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Suốt hơn 20 năm, ở Đài ông trực tiếp chỉ đạo, duyệt bài các chương trình phát thanh vào Nam, đồng thời lăn lộn cùng tập thể lãnh đạo Đài thực hiện nhiều công việc quan trọng, xây dựng và phát triển Đài về mọi mặt, đảm bảo sóng được phát liên tục (kể cả khi không quân Mỹ đánh phá miền Bắc rất ác liệt).

Sau chiến thắng Mậu Thân năm 1968, nhận thấy tình hình cách mạng miền Nam có những chuyển biến mới, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho Đài Tiếng nói Việt Nam xây dựng bộ phận truyền hình để chuẩn bị cho miền Nam. Ông cùng đồng nghiệp của mình tập trung cải tiến máy móc trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, nội dung chương trình để ra mắt Đài Truyền hình Việt Nam vào ngày 7/9/1970, tại số 58 Quán Sứ, Hà Nội. Đội ngũ cán bộ Đài khi ấy chủ yếu được đào tạo tại Cu – ba và Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức). Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang đi đến giai đoạn cuối cùng vào tháng 4/1975, Trung ương Đảng quyết định cử đoàn Đài Truyền hình Việt Nam vào Sài Gòn tiếp quản và chuẩn bị phát sóng, ông lúc đó là Phó Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, kiêm Trưởng ban vô tuyến truyền hình được cử dẫn đầu một đoàn cán bộ hành quân “thần tốc” vào Sài Gòn và đã có mặt tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn đúng vào chiều 30/4/1975.

Ngay sau khi tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn, ông đã gặp gỡ và hợp tác với viên Trung tá, kỹ sư Lê Vĩnh Hòa (Việt Nam Cộng hòa) là Tổng cục Trưởng Tổng cục Phát thanh – Truyền hình – Điện ảnh Sài Gòn cùng nhau nhanh chóng tổ chức chuẩn bị về nhân sự, kỹ thuật để tiếp tục phát sóng. Sáng ngày 1/5/1975, khi trật tự ở Sài Gòn được thiết lập, anh em cán bộ truyền hình từ Hà Nội vào, từ căn cứ Tây Ninh về cùng nhân viên cũ của Đài Truyền hình Sài Gòn lên xe ra đường phố tác nghiệp, chuẩn bị phương tiện kỹ thuật để chuẩn bị phát sóng.

 Đúng 19 h tối 1/5/1975 người dân Sài Gòn vô cùng ngạc nhiên khi bật ti vi nhìn thấy lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tung bay phấp phới trên màn ảnh nhỏ. Bằng giọng đọc truyền cảm dõng dạc của hai phát thanh viên Nguyễn Hữu Phước và Hồ Mỹ Hạnh (vốn là phát thanh viên của Đài Phát thanh Giải phóng): “Đây là Đài Vô tuyến truyền hình Sài Gòn Giải phóng”, khiến ai cũng xúc động dâng trào, vỡ òa niềm vui. Nội dung của buổi phát sóng đầu tiên chủ yếu là thông báo của Ủy ban Quân quản thành phố về những nhiệm vụ trước mắt tại Sài Gòn – Gia Định, cùng thông báo của Ban Giám đốc Đài về lịch phát sóng, thời lượng chương trình…

Từ đó, Đài Vô tuyến truyền hình Sài Gòn Giải phóng tiếp tục phát sóng hàng đêm, trở thành kênh truyền hình cách mạng đầu tiên ở Sài Gòn. Ông trở thành Giám đốc đầu tiên của Đài Vô tuyến truyền hình Sài Gòn Giải phóng, sau đổi tên là Đài Truyền hình TP. HCM (HTV).          

Thời kỳ ông giữ chức Giám đốc HTV từ năm 1976 - 1989, là giai đoạn khó khăn nhất của Đài, khi ấy đất nước mới giải phóng, bị cấm vận, phong tỏa nhiều mặt, đang tiến hành cải tạo công thương, lại phải đối phó với chiến tranh biên giới, cơ chế quan liêu bao cấp nặng nề trên tất cả các lĩnh vực. Trước những khăn chồng chất khó khăn kể trên, nếu không tâm huyến, bản lĩnh quyết ý chí chèo lái và động viên kịp thời của ông thì con thuyền HTV khó có thể vượt qua sóng gió. Bằng kinh nghiệm lâu năm lăn lộn trong nghề và tính quyết đoán, ông đã nhanh chóng cùng tập thể cán bộ, nhân viên, phóng viên, đạo diễn kỹ thuật viên của Đài vực dậy HTV ngay sau vụ hỏa hoạn, chuyển qua phát hình màu, chấm dứt hệ đen trắng.

Đồng thời cho ra đời Kênh 7, đánh dấu lần đầu tiên quảng cáo xuất hiện trở lại trên sóng truyền hình kể từ sau 30/4/1975 và cũng lần đầu tiên một đài truyền hình của Việt Nam phát hai kênh với nội dung độc lập. Tiếp đó ông cho thành lập Trung tâm Dịch vụ Truyền hình, chuyên lo việc quảng cáo, mua, bán bản quyền các chương trình, từ đó tạo nguồn thu cho HTV. Đây cũng là thời điểm hai thể loại chương trình nổi bật trên HTV (xuất hiện từ đầu thập niên 1980) là kịch và ca nhạc tiếp tục được phát triển, đẩy mạnh thu hút đông đảo khán giả màn ảnh nhỏ.

Nhiều nhà báo nhận xét, ông là tấm gương sáng để những người làm báo hôm nay học tập về tinh thần làm làm việc, sự hy sinh cống hiến hết mình cho sự nghiệp phát thanh và truyền hình nói chung với HTV nói riêng. Ông trở thành một trong những người anh truyền cảm hứng, niềm đam mê và tâm huyết với nghề truyền hình cho rất nhiều đồng nghiệp, góp phần đào tạo nên nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên, đạo diễn trưởng thành ở HTV nói riêng và sự nghiệp phát thanh và truyền hình nước nhà nói chung.                                                                                     

Đọc thêm

Đừng bỏ lỡ

Cùng chuyên mục